Phụ nữ bị bệnh tiểu đường cần mang thai có kế hoạch để ngăn ngừa các nguy cơ bất thường thai nhi và các nguy cơ sức khỏe người mẹ có thể gặp phải sau này.
1. Nguy cơ bất thường thai nhi ở phụ nữ bị bệnh tiểu đường
Phụ nữ mang thai khi đã bị bệnh tiểu đường, dù mắc tiểu đường tuýp 1 hay tuýp 2 đều có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến cả thai phụ và thai nhi. Nếu phụ nữ bị tiểu đường có tình trạng kiểm soát đường huyết không tốt trong giai đoạn thụ thai, hình thành bào thai, hình thành các bộ phận của thai nhi thì nguy cơ xuất hiện bất thường ở thai nhi và sảy thai sẽ tăng lên.
Theo báo cáo từ Âu Mỹ, nguy cơ dị tật thai nhi ở phụ nữ mang thai khi đã bị tiểu đường là 5.2 - 16.8%, trong khi đó, ở những trẻ sinh ra từ thai phụ không bị bệnh tiểu đường, nguy cơ này chỉ có 1.2 - 3.7%.
Dị tật là những khuyết tật trong các bộ phận cơ thể của trẻ và là nguyên nhân gây tử vong hoặc cần phẫu thuật. Tỷ lệ xuất hiện dị tật, khuyết tật ở các bộ phận như hệ thần kinh, thận, tim ở trẻ sinh ra từ người mẹ bị bệnh tiểu đường cao hơn so với trẻ sinh ra từ thai phụ khỏe mạnh. Dựa trên dữ liệu này, nhóm nghiên cứu của ông Mills JL đã làm rõ những bất thường thai nhi có thể xảy ra ở thời kỳ đầu thai kỳ trong vòng 7 tuần sau khi rụng trứng và thảo luận về khả năng có thể giảm những bất thường này bằng cách kiểm soát tốt bệnh tiểu đường ở người mẹ từ trước khi mang thai.
Phụ nữ bị tiểu đường có nhiều nguy cơ bất thường ở thai nhi (Ảnh: Intenet)
Những bất thường ở thai nhi của thai phụ bị tiểu đường:
Dị tật | Tỷ lệ khởi phát | Số tuần thai |
Thoái hóa cột sống | 252 | 3 |
Tật nứt đốt sống, khiếm khuyết hệ thần kinh trung ương khác | 2 | 4 |
Não phẳng | 3 | 4 |
Dị tật tim | 4 | |
Chuyển gốc động mạch lớn | 5 | |
Thông liên thất | 6 | |
Thông liên nhĩ | 6 | |
Tắc hậu môn/ trực tràng | 3 | 6 |
Dị tật | 5 | |
Bất sản thận | 6 | 5 |
U nang thận | 4 | 5 |
Niệu quản đôi | 23 | 5 |
Nội tạng đảo ngược | 84 | 4 |
2. Phụ nữ bị bệnh tiểu đường cần mang thai có kế hoạch để giảm nguy cơ dị tật thai nhi
Phụ nữ bị bệnh tiểu đường cần mang thai có kế hoạch vì mang thai có thể khiến phụ nữ bị tiểu đường dễ bị nhiễm toan ceton và làm chuyển biến xấu các biến chứng liên quan đến mạch máu như bệnh võng mạc và bệnh thận.
– Trước khi mang thai, phụ nữ bị tiểu đường cần kiểm soát HbA1c ≤ 7
Người ta đã làm rõ mối quan hệ giữa tình trạng kiểm soát bệnh tiểu đường ở giai đoạn đầu thai kỳ và nguy cơ xuất hiện dị tật thai nhi. Ví dụ, những đứa trẻ của 58 người mẹ bị tiểu đường có HbA1c cao hơn 1.7 lần so với người mẹ không bị bệnh tiểu đường, tỷ lệ trẻ xuất hiện dị tật là 22%, tuy nhiên ở 58 thai phụ bị tiểu đường khác có HbA1c thấp, tỷ lệ trẻ xuất hiện dị tật chỉ có 3%.
Các báo cáo tương tự cũng đã chỉ ra rằng tình trạng tăng đường huyết ở giai đoạn đầu thai kỳ là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định nguy cơ xuất hiện bất thường ở thai nhi. Do đó, khuyến khích phụ nữ bị tiểu đường cần kiểm soát HbA1c ở mức dưới 7% từ trước khi mang thai. Nếu phụ nữ bị tiểu đường có chỉ số HbA1c lớn hơn 8%, nên tránh mang thai cho đến khi kiểm soát đường huyết được cải thiện.
Phụ nữ bị tiểu đường cần trao đổi với bác sĩ về kế hoạch mang thai (Ảnh: Internet)
– Phụ nữ bị tiểu đường cần đi khám và điều trị các biến chứng tiểu đường
+ Phụ nữ có vấn đề về thị giác
Trước khi mang thai, phụ nữ bị tiểu đường cần đi khám nhãn khoa để kiểm tra xem có bị bệnh võng mạc tiểu đường không và nếu có, cần kiểm tra mức độ biến chứng để xem có cần điều trị laser quang đông không. Đối với những phụ nữ có tiền sử bị bệnh tiểu đường lâu dài, việc mang thai có thể làm bệnh võng mạc chuyển biến xấu hơn. Đặc biệt đối với những phụ nữ tăng cường điều trị tăng đường huyết cấp tốc sau khi mang thai, bệnh võng mạc có thể chuyển biến trầm trọng hơn.
+ Phụ nữ bị tăng huyết áp và biến chứng thận tiểu đường
Ở phụ nữ có biến chứng bệnh thận tiểu đường, khi mang thai sẽ gặp phải rất nhiều nguy cơ. Cụ thể là (1) nguy cơ tăng huyết áp ở thai phụ, (2) hạn chế sự phát triển của thai nhi do sự chuyển biến xấu của tình trạng tăng huyết áp và bệnh thận do tăng huyết áp thai kỳ.
Tăng huyết áp sẽ đẩy nhanh sự tiến triển của bệnh thận và gây những ảnh hưởng đáng kể trong thời gian dưỡng thai. Huyết áp tâm thu tốt nhất là ≤ 130mmHg, huyết áp tâm trương tốt nhất là ≤ 85mmHg. Tuy nhiên thai phụ không nên dùng các loại thuốc điều trị tăng huyết áp như thuốc ức chế men chuyển ACE và ARB vì những loại thuốc này sẽ gây ảnh hưởng xấu đến chức năng thận của thai nhi và gây dị tật thai nhi.
Cũng có những báo cáo cho rằng những phụ nữ sử dụng thuốc ức chế men chuyển ACE Captopril từ 6 tháng trước khi mang thai đã có thể giảm protein niệu khi mang thai. Ngoài ra, thuốc đối kháng Ca có thể gây thiếu oxy máu cho thai nhi và nhóm thuốc statin gây ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi và có thể gây dị tật.
Việc mang thai và sinh con về cơ bản là những việc rất tốt, nhưng nếu người mẹ bị tiểu đường và kiểm soát đường huyết kém, rất nhiều nguy cơ nguy hiểm có thể xảy ra. Phụ nữ bị tiểu đường nếu có nguyện vọng muốn mang thai thì nên tiếp nhận tư vấn của bác sĩ từ trước khi mang thai để có thể mang thai và sinh con an toàn.